1. Các dạng tật và mức độ khuyết tật
1.1. Các dạng tật
Theo khoản 1 Điều 3
Luật Người khuyết tật 2010 (được hướng dẫn chi tiết tại Điều 2 Nghị định
28/2012/NĐ-CP), các dạng tật bao gồm:
- Khuyết tật vận động
là tình trạng giảm hoặc mất chức năng cử động đầu, cổ, chân, tay, thân mình dẫn
đến hạn chế trong vận động, di chuyển.
- Khuyết tật nghe, nói
là tình trạng giảm hoặc mất chức năng nghe, nói hoặc cả nghe và nói, phát âm
thành tiếng và câu rõ ràng dẫn đến hạn chế trong giao tiếp, trao đổi thông tin
bằng lời nói.
- Khuyết tật nhìn là
tình trạng giảm hoặc mất khả năng nhìn và cảm nhận ánh sáng, màu sắc, hình ảnh,
sự vật trong điều kiện ánh sáng và môi trường bình thường.
- Khuyết tật thần
kinh, tâm thần là tình trạng rối loạn tri giác, trí nhớ, cảm xúc, kiểm soát
hành vi, suy nghĩ và có biểu hiện với những lời nói, hành động bất thường.
- Khuyết tật trí tuệ
là tình trạng giảm hoặc mất khả năng nhận thức, tư duy biểu hiện bằng việc chậm
hoặc không thể suy nghĩ, phân tích về sự vật, hiện tượng, giải quyết sự việc.
- Khuyết tật khác là
tình trạng giảm hoặc mất những chức năng cơ thể khiến cho hoạt động lao động,
sinh hoạt, học tập gặp khó khăn mà không thuộc các trường hợp trên.
1.2. Mức độ khuyết tật
Cụ thể tại khoản 2
Điều 3 Luật Người khuyết tật 2010 (được hướng dẫn chi tiết tại Điều 3 Nghị định
28/2012/NĐ-CP), thì người khuyết tật được chia theo mức độ khuyết tật sau đây:
- Người khuyết tật đặc
biệt nặng là những người do khuyết tật dẫn đến mất hoàn toàn chức năng, không
tự kiểm soát hoặc không tự thực hiện được các hoạt động đi lại, mặc quần áo, vệ
sinh cá nhân và những việc khác phục vụ nhu cầu sinh hoạt cá nhân hàng ngày mà
cần có người theo dõi, trợ giúp, chăm sóc hoàn toàn.
- Người khuyết tật
nặng là những người do khuyết tật dẫn đến mất một phần hoặc suy giảm chức năng,
không tự kiểm soát hoặc không tự thực hiện được một số hoạt động đi lại, mặc
quần áo, vệ sinh cá nhân và những việc khác phục vụ nhu cầu sinh hoạt cá nhân
hàng ngày mà cần có người theo dõi, trợ giúp, chăm sóc.
- Người khuyết tật nhẹ
là người khuyết tật không thuộc trường hợp quy định trên.
2. Phương pháp xác định mức độ khuyết tật
Các phương pháp xác định
mức độ khuyết tật được quy định như sau:
(1) Hội
đồng xác định mức độ khuyết tật căn cứ vào quy định dạng tật, mức độ khuyết tật
và quan sát trực tiếp người khuyết tật thông qua thực hiện hoạt động đơn giản
phục vụ nhu cầu sinh hoạt cá nhân hàng ngày, sử dụng bộ câu hỏi theo tiêu chí
về y tế, xã hội và phương pháp khác theo quy định để xác định mức độ khuyết
tật.
Trừ trường hợp quy
định tại mục (2), (3).
(2) Hội
đồng giám định y khoa xác định, kết luận về dạng tật và mức độ khuyết tật đối
với trường hợp quy định tại Khoản 2 Điều 15 Luật người khuyết tật 2010, cụ thể
như sau:
- Hội đồng xác định
mức độ khuyết tật không đưa ra được kết luận về mức độ khuyết tật;
- Người khuyết tật
hoặc đại diện hợp pháp của người khuyết tật không đồng ý với kết luận của Hội
đồng xác định mức độ khuyết tật;
- Có bằng chứng xác
thực về việc xác định mức độ khuyết tật của Hội đồng xác định mức độ khuyết tật
không khách quan, chính xác.
(3) Người
khuyết tật đã có kết luận của Hội đồng giám định y khoa về khả năng tự phục vụ,
mức độ suy giảm khả năng lao động trước ngày 01/6/2012 thì Hội đồng xác định
mức độ khuyết tật căn cứ kết luận của Hội đồng giám định y khoa để xác định mức
độ khuyết tật như sau:
- Người khuyết tật đặc
biệt nặng khi được Hội đồng giám định y khoa kết luận không còn khả năng tự
phục vụ hoặc suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên;
- Người khuyết tật
nặng khi được Hội đồng giám định y khoa kết luận có khả năng tự phục vụ sinh
hoạt nếu có người, phương tiện trợ giúp một phần hoặc suy giảm khả năng lao
động từ 61% đến 80%;
- Người khuyết tật nhẹ
khi được Hội đồng giám định y khoa kết luận có khả năng tự phục vụ sinh hoạt
hoặc suy giảm khả năng lao động dưới 61%.
(4) Trường
hợp văn bản của Hội đồng giám định y khoa trước ngày 01/6/2012 kết luận chưa rõ
về khả năng tự phục vụ, mức độ suy giảm khả năng lao động thì Hội đồng xác định
mức độ khuyết tật thực hiện việc xác định mức độ khuyết tật cho người khuyết
tật theo quy định tại mục (1).
(Điều 4 Nghị định
28/2012/NĐ-CP)
3. Thủ tục xác định mức độ khuyết tật
Thủ tục xác định mức
độ khuyết tật được thực hiện theo quy định tại Điều 18 Luật Người khuyết tật
2010, cụ thể như sau:
- Khi có nhu cầu xác
định mức độ khuyết tật, người khuyết tật hoặc người đại diện hợp pháp của người
khuyết tật gửi đơn đến Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người khuyết tật cư trú.
- Trong thời hạn 30
ngày, kể từ ngày nhận đơn đề nghị xác định mức độ khuyết tật, Chủ tịch Ủy ban
nhân dân cấp xã có trách nhiệm triệu tập Hội đồng xác định mức độ khuyết tật,
gửi thông báo về thời gian xác định mức độ khuyết tật cho người khuyết tật hoặc
người đại diện hợp pháp của họ.
- Hội đồng xác định
mức độ khuyết tật tổ chức việc xác định mức độ khuyết tật, lập hồ sơ xác định
mức độ khuyết tật và ra kết luận.
- Trong thời hạn 05
ngày làm việc, kể từ ngày có kết luận của Hội đồng xác định mức độ khuyết tật,
Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã niêm yết và thông báo công khai kết luận của
Hội đồng xác định mức độ khuyết tật và cấp giấy xác nhận khuyết tật.
4. Giấy xác nhận khuyết tật
Theo Điều 19 Luật
Người khuyết tật 2010, giấy xác nhận khuyết tật có các nội dung cơ bản sau đây:
- Họ và tên, ngày,
tháng, năm sinh, giới tính của người khuyết tật;
- Địa chỉ nơi cư trú
của người khuyết tật;
- Dạng khuyết tật;
- Mức độ khuyết tật.
Khi đó, giấy xác nhận
khuyết tật có hiệu lực kể từ ngày Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã ký.
5. Xác định lại mức độ khuyết tật
Việc xác định lại mức
độ khuyết tật được thực hiện theo đề nghị của người khuyết tật hoặc người đại
diện hợp pháp của người khuyết tật khi có sự kiện làm thay đổi mức độ khuyết
tật.
Trình tự, thủ tục xác
định lại mức độ khuyết tật và cấp giấy xác nhận khuyết tật được thực hiện theo
quy định tại mục 3, 4.
(Điều 20 Luật Người
khuyết tật 2010)